Franz Lehár sinh ra ở Komáron (nay là Slovakia) vào ngày 30/08/1870, là con cả của một vị chỉ huy dàn nhạc trong quân đội Áo-Hungari. Trong suốt thời thơ ấu, gia đình ông luôn phải di chuyển từ doanh trại này sang doanh trại khác, nhưng không khí luôn tràn ngập âm nhạc. Đến tuổi 15, ông được nhận vào học viện âm nhạc Prague, nơi ông theo học violin và soạn nhạc. Ở đó, ông nhận được lời khuyên từ chính Dvorak “Nào con trai, hãy nâng đàn lên và hãy viết nhạc!”.
Sau khi tốt nghiệp, ông gia nhập quân đội và chơi nhạc trong dàn nhạc của cha mình trong một thời gian. Ở đó, ông cùng làm việc với một người bạn mà sau này trở thành một nhà soạn nhạc đồng môn Leo Fall. Đó là một bước đệm thuận lợi để sau này, khi đến tuổi 20, ông trở thành nhà chỉ huy dàn nhạc trẻ nhất trong quân đội Áo-Hungari. Việc ông được thuyên chuyển đến đơn vị hải quân duy nhất của đế quốc Áo-Hungari ở Pola trên vùng biển Adriatic đem lại cho ông một dịp may hiếm có khi ông có cơ hội biểu diễn với một dàn nhạc 110 người, mà với dàn nhạc này, ông có thể hoàn thiện kỹ thuật phối khí của mình. Cũng tại đó, ông đã gặp lần đầu người viết lời cho operetta của mình là một sĩ quan hải quân tên Felix Falzari. Sự cộng tác của họ đã cho ra đời vở operetta đầu tiên của Lehár – Kukuschka, được trình diễn ở Leipzig và Budapest. Mặc dù vở diễn không thu hút được nhiều sự quan tâm lắm, nhưng nhà soạn nhạc – đã vội vã xuất ngũ – hy vọng rằng việc sáng tác sẽ nuôi sống được ông. Tuy nhiên, ông đã phải buồn bã nhập ngũ lại khi khoản tiền nhuận bút đạm bạc từ Kukuschka cạn kiệt.
Sự kiện được điều đến Vienna cuối cùng cũng đã mở toang mọi cánh cửa với Lehár. Việc sáng tác “bản waltz danh tiếng” cho vũ hội “Vàng và Bạc” của công chúa Metternich vào tháng giêng năm 1902 đột nhiên làm cho tài năng của ông được công chúng chú ý đến và nhà xuất bản may mắn được ông hợp tác xuất bản tác phẩm này bị quá tải bởi lời yêu cầu từ khắp nơi trên thế giới. Cuối cùng thì Lehár cũng rời bỏ quân đội và nhận vị trí chỉ huy dàn nhạc tại Theater an der Wien (Nhà hát Vienna). Ở đó ông viết vở operetta Wiener Frauen cho mùa Giáng sinh 1902, và cùng thời gian đó, ông viết một operetta khác là Der Rastelbinder với libretto của Victor Léon, là chủ nhiệm sản xuất cuả nhà hát đối thủ Carl. Khi tin này bị lộ ra, ông phải rời bỏ Nhà hát Vienna và đưa ra một sự lựa chọn đầy rủi ro là trở thành một nhà soạn nhạc chuyên nghiệp. Cuộc thử thách diễn ra trong ba năm: vào ngày 30/12/1905, vở operetta Die lustige Witwe (Người goá phụ hạnh phúc) đã được công diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Vienna.
Trong lịch sử operetta Vienna có hai vở operetta đặc biệt nổi tiếng và mang đậm tính chất hài hước của thể loại operetta: Die Fledermaus (Con dơi) của Johann Strauss II và Die Lustige Witwe (Người goá phụ hạnh phúc) của Franz Lehár. Cả hai vở đều được công diễn lần đầu ở Vienna, Người goá phụ hạnh phúc được công diễn vào năm 1905, 30 năm sau Con dơi. Bản thân Lehár rất thích các tác phẩm âm nhạc sân khấu của Donizetti, Offenbach và của cha con nhà Johann Strauss. Lehár viết vở Người goá phụ hạnh phúc với libretto của hai tác giả người Áo là Leo Stein và Victor Leon. Người goá phụ hạnh phúc là một vở operetta vui vẻ, âm nhạc hài hước và đầy sức sống với các trích đoạn nổi tiếng: bài hát Vilja, aria của Danilo và nhiều điệu nhảy như waltz, can-can, galop…
Nguời goá phụ hạnh phúc nguyên là một vở hài kịch với tựa đề L’attaché (Tùy viên) của tác giả Henri Meilhac, nguời viết libretto cho các vở opera Pháp nổi tiếng như Carmen của Bizet, Manon của Massenet và Les contes d”Hoffmann của Offenbach. Stein và Leon viết libretto trong trạng thái…vụng trộm vì chưa trả tiền bản quyền cho các nhà xuất bản Pháp. Nhạc sĩ đầu tiên mà hai librettist người Áo định giao kịch bản operetta là nhạc sĩ Richard Heuberger, tác giả của vở operetta Der Opernball (1896) nổi tiếng. Heuberger là nguời đứng đầu tổ chức biểu diễn âm nhạc Vienna và cũng chính là người từng từ chối đơn xin việc của Lehár vì cho rằng Lehár không có khả năng viết waltz. Nhưng những dòng nhạc đầu tiên mà Heuberger viết cho Stein và Leon đã làm họ thất vọng và họ đã tìm một nhạc sĩ khác. Với sự giới thiệu của Emil Steininger, thư kí nhà hát nhạc kịch Vienna, hai librettist đã mời Lehár viết thử. Cũng tương tự như với operetta Miền đất của những nụ cười sau này, giai điệu nổi tiếng (duet Hanna-Danilo) đã được hai librettist nghe… qua điện thoại. Giai điệu này cũng dựa vào một giai điệu được Lehár viết trước đó (waltz “Vàng và Bạc”). Và Lehár chính thức nhận lời mời của Leon và Stein để hoàn thành Người goá phụ hạnh phúc. Lehár hoàn thành nó vào năm 1905, công diễn ở Vienna vào ngày 30 tháng 12. Do ngân sách hạn hẹp, lần công diễn đầu tiên được dàn dựng rất đơn giản. Khán giả rất tán thưởng vở operetta và hai ca sĩ trong buổi ra mắt (Mizzi Gunther và Louis Treumann) được khán giả cổ vũ nhiệt liệt. Nhưng báo chí lại không mấy cảm tình với Người goá phụ hạnh phúc, một nhà phê bình cho rằng vở operetta này là “tác phẩm vô duyên nhất từng thấy tại một nhà hát”. Trong khoảng 3 tuần, vở operetta của Lehár toàn…đội sổ. Nhưng rồi thành công chợt đến trong một lần dàn dựng công phu và chỉ trong một thời gian ngắn, Người goá phụ hạnh phúc đạt đến lần công diễn thứ 600 ở Vienna.
Nhưng phải đến năm 1907 thì Người goá phụ hạnh phúc mới trở thành hiện tượng khi được đem công diễn ở London. Công chúng nhanh chóng thần tượng một cách cuồng nhiệt vở operetta của Lehár và thậm chí trang phục của ca sĩ đóng vai Hanna (Lily Elsie) trở thành model toàn London. Người goá phụ hạnh phúc đạt được thành công tương tự trên đất Mĩ và toàn châu Âu. Operetta Người goá phụ hạnh phúc – đến bây giờ đã tồn tại 90 năm- đã phá vỡ mọi kỷ lục về bán vé và làm say mê tất cả những khán giả đã được xem biểu diễn. Vô số những bản thu âm, phim ảnh và các tiết mục trên vô tuyến dành cho tác phẩm “nữ hoàng của các operetta” này. Lehár đã trở thành một người đàn ông thành công và giàu có như ông đã thừa nhận sau này: “Tôi lao vào việc soạn operetta một cách mù quáng, chẳng có ý niệm gì về điều mà tôi đang làm, nhưng chính điều này đã giúp tôi tìm thấy phong cách riêng của mình”. Thật vậy, ông đã mang lại cho operetta một nguồn cảm xúc mãnh liệt và mang đặc tính sâu sắc mà trước đây chưa từng được biết đến. Những tác phẩm thành công khác của ông trước năm 1914 như The Count of Luxembourg, Gipsy Love và Eva, làm tăng thêm danh tiếng và tài sản của ông.
Chiến tranh thế giới thứ nhất và sự sụp đổ của Đế chế Áo- Hung, nơi Lehár đã sinh ra và lớn lên dường như đã kìm hãm tài năng của ông trong một thời gian. Ông đã vượt qua giai đoạn khó khăn này khi việc sáng tác Frasquita tại Vienna vào năm 1922 đã dẫn đến sự hợp tác lần đầu tiên giữa ông với ca sĩ trẻ giọng tenor Richard Tauber. Điều này đã tác động lên Lehár như một dòng điện và trong suốt khoảng thời gian từ năm 1925 đến 1934, ông đã viết 6 operetta, chỉ đặc biệt sáng tác cho giọng ca của Tauber. Mỗi tác phẩm là một dòng bất tận những bài ca, duet và khúc đồng diễn trữ tình. Mỗi vở bao gồm những gì đã trở thành “Tauber-Lied” như Paganini (1925), The Czarevitch (1926), Frederica (1928), The land of Smiles (Miền đất của những nụ cười, 1929), Schun ist die Welt (1931) và Guiditta (1934), operetta cuối cùng được công diễn lần đầu tiên tại Staatsoper ở Vienna với Tauber và Jarmila Novotna đóng vai chính.
Vào tháng 2 năm 1935, Lehár quyết định thành lập nhà xuất bản của riêng mình để có thể hoàn toàn kiểm soát các buổi biểu diễn và các tác phẩm của ông. Ông cộng tác với Glocken Verlag ở Vienna vào ngày 15/02/1935. Ông đã giành lại hầu hết các tác phẩm của mình từ các nhà xuất bản mà trước kia ông đã bán bản quyền xuất bản và bỏ ra nhiều thời gian để tái bản chúng với những chỉnh sửa cuối cùng. Ông mất vào ngày 24/10/1948 tại Bad Ischl. Trong nhiều thập kỷ nay, việc quản lý danh mục các tác phẩm này được giao phó cho các công ty Glocken Verlag đặt tại Vienna, London và Frankfurt, do nhóm các nhà xuất bản Josef Weinberger tại các thành phố này.
(Nguồn: nhaccodien.info)
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào thì đừng ngần ngại, hãy liên hệ với mình:
Facebook
Youtube
Tiktok
Instagram