CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA ALEXANDER BIZET (1838-1875)


Có lẽ hiếm có một tác giả nào trở nên vĩ đại chỉ với một tác phẩm duy nhất. Tuy nhiên Georges Bizet là một ngoại lệ. Chỉ bằng vở opera Carmen, Bizet đã được cả châu Âu biết đến như là một tác giả viết opera tài ba, sánh ngang với những tên tuổi như Rossini, Donizetti hay Verdi. Tất nhiên điều này không có nghĩa là Bizet không sáng tác ra những tác phẩm khác hay những sáng tác khác của ông không có mấy giá trị nhưng chắc chắn rằng không một tác phẩm nào trong số này có thể sánh ngang với Carmen về mặt lôi cuốn, hấp dẫn và phổ biến. Kể từ khi ra đời cho đến nay, Carmen vẫn luôn là một trong những vở opera được yêu thích và được trình diễn nhiều nhất.

GEORGES BIZET (1838-1875)

Alexander Cesar Leopold Bizet (Georges là tên được đặt sau lễ rửa tội) sinh ngày 25 tháng 10 năm 1838 tại Paris trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật. Mẹ ông là một nghệ sĩ piano tài ba, còn cha của ông là một giáo viên dạy thanh nhạc. Chính họ đã dạy ông những bài học nhạc đầu tiên. Ngay từ nhỏ Bizet đã bộc khả năng chơi piano rất tốt của mình. Chính điều này đã giúp cậu bé Georges được mọi người so sánh với Mozart và Mendelssohn. Cậu bé có thể đọc và chơi các bản nhạc khi mới có 4 tuổi, điều này khiến cha mẹ cậu rất ngạc nhiên. Có thể nói rằng sự nghiệp âm nhạc của Bizet sau này chính là do sự sắp đặt của Chúa trời.

Việc biểu diễn xuất sắc các sonata piano của Mozart đã khiến cậu được nhận vào nhạc viện Paris đầy uy tín vào năm 1848, khi cậu mới hơn 9 tuổi. Tại đây Bizet học đối vị với Zimmerman và Charles Gounod còn Jacques Halévy (tác giả vở opera La Juive) dạy cậu sáng tác và dưới sự giảng dạy của Marmontel, cậu đã trở thành một nghệ sĩ piano xuất sắc. Trong một lần sang Paris biểu diễn, Liszt được nghe Bizet biểu diễn một tác phẩm của chính Liszt và Liszt đã công nhận rằng Bizet là một trong ba nghệ sĩ piano xuất sắc nhất châu Âu (hai người kia là Liszt và Hans von Bülow – người được Tchaikovsky đề tặng bản Concerto piano số 1). Cũng trong thời gian học tại nhạc viện Paris, Bizet đã giành được vô số giải thưởng về biểu diễn piano và organ.

Vào năm 1855, khi mới 17 tuổi, Bizet đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình khi hoàn thành bản Giao hưởng giọng Đô trưởng. Tuy nhiên khi sinh thời, Bizet không công bố tác phẩm này bởi vì ông cho rằng nó chịu ảnh hưởng nặng nề từ các tác phẩm của thầy giáo mình là Charles Gounod. Đến tận năm 1935, tác phẩm này mới được biểu diễn lần đầu tiên. Năm 1857, Bizet chia sẻ giải thưởng Offenbach (giải do nhạc sĩ Pháp Jacques Offenbach lập ra để khuyến khích các nhạc sĩ trẻ) cùng với Lecocq khi ông sáng tác vở operetta một màn Le Docteur Miracle (Bác sĩ Miracle). Một năm sau, với bản cantata Clovis et Clotilde, Bizet đã đoạt giải thưởng danh giá Prix de Rome (trước đó Berlioz cũng đã đoạt được giải này vào năm 1830) và theo như qui định của giải thưởng ông phải đến Rome học trong 3 năm. Trong những năm ở Rome, ông có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với các vở opera của các nhạc sĩ Ý và Bizet cũng đã sáng tác khá nhiều trong thời gian này. Tuy nhiên, tồn tại đến ngày nay chỉ còn 4 tác phẩm, trong đó có vở opera buffa Don Procopio và không có gì ngạc nhiên khi ta thấy rằng chúng đều ảnh hưởng nặng nề của các tác giả Ý, đặc biệt là Donizetti. Và cũng chính tại đây, Bizet đã nhận ra rằng sáng tác opera là công việc sẽ theo đuổi cả cuộc đời mình.

Bizet trở về Paris vào năm 1861 và chỉ vài tháng sau mẹ ông qua đời. Cuộc sống của Bizet đã bước sang một chặng đường mới. Ông từ chối công việc giảng dạy tại nhạc viện và nuôi tham vọng trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng đồng thời phải nhanh chóng hoàn thành một tác phẩm để kết thúc bản hợp đồng với Prix de Rome. Và kết quả là vở opera comique La guzla de l’emir ra đời.

Nhận lời mời của giám đốc nhà hát Lyrique, Bizet bắt đầu sáng tác vở opera Les pêcheurs de perles (Những người mò ngọc trai). Ông mất 4 tháng để hoàn thành tác phẩm này và vở opera được công diễn lần đầu tiên vào tháng 9 năm 1863. Tuy nhiên đây lại là một thất bại thảm hại, vở diễn được công chúng đón nhận rất thờ ơ và bị cho là khô cứng, các nhân vật thì quá nhạt nhẽo, thiếu cảm xúc. Và chỉ đến năm 1886, vở opera mới được sống lại trên sân khấu và khi đó moi người mới nhận ra vẻ đẹp thật sự của tác phẩm. Buồn chán, thất vọng, những năm tiếp theo Bizet hầu như không sáng tác nữa và kiếm sống bằng cách phối khí lại các tác phẩm của các nhạc sĩ khác và dạy piano. Và chỉ đến năm 1867, Bizet mới sáng tác trở lại khi vào tháng 12, ông công diễn vở opera La jolie fille de Perth (Người đẹp thành Perth), dựa trên tiểu thuyết cùng tên của văn hào Walter Scott. Vở diễn này cho thấy sự trưởng thành của Bizet trong bút pháp sáng tác khi âm nhạc của vở opera sinh động, hấp dẫn và chặt chẽ hơn tuy nhiên phần ca từ lại bị chê là quá dễ dãi. Tác phẩm này đã gây được ấn tượng tốt hơn đối với công chúng và giới phê bình tuy nhiên nó cũng chỉ tồn tại được sau có 18 buổi biểu diễn.

Bizet có một niềm đam mê kì lạ khi sáng tác opera, sau khi phải hứng chịu thất bại của Les pêcheurs de perles và La jolie fille de Perth, một người bạn đã khuyên ông nên từ bỏ việc sáng tác opera và tập trung vào việc biểu diễn piano cũng như chuyển sang sáng tác giao hưởng nhưng Bizet đã nói rằng: “Tôi phải ở lại với opera, không có nó thì tôi chả là gì cả”.

Georges Bizet khoảng 25 tuổi

Năm 1868 là một năm khủng hoảng đối với Bizet, rất nhiều tác phẩm không được hoàn thành, ông thường xuyên cảm thấy rất đau ở cuống họng (đây là một trong những nguyên nhân gây nên cái chết của ông sau này) và bị cảnh sát gọi lên thẩm vấn liên tục vì lập trường tôn giáo của mình, tuy nhiên cũng vì vậy mà quan điểm sáng tác của ông trở nên sâu sắc hơn. Ông chuyển ra sinh sống tại ngoại ô Paris với hy vọng cải thiện được tâm trạng của mình. Tại đây vào tháng 6 năm 1869, ông cưới thiếu nữ mới 20 tuổi Geneviève Halévy, con gái của người thầy giáo cũ. Tuy nhiên đây cũng là một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, hai người có với nhau một cậu con trai duy nhất. Một năm sau gia đình ông lâm vào cảnh thiếu thốn do cuộc chiến tranh Pháp – Phổ gây ra (thời gian này Bizet cũng tham gia vào Cục phòng vệ quốc gia). Trong thời điểm này ông có rất ít điều kiện để sáng tác nhưng đến năm 1871 ông hoàn thành một tổ khúc dành cho piano duet với tên gọi Jeux d’enfants (Những trò chơi cho trẻ nhỏ) và nhiều trích đoạn trong bản nhạc này đã được phối lại cho dàn nhạc. Bizet tỏ ra rất hài lòng với tác phẩm này. Cũng trong năm 1871, Bizet đã hoàn thành phần âm nhạc trong vở kịch L’arlésienne (Cô nàng xứ Arles) – dựa trên truyện ngắn cùng tên của nhà văn Pháp Alfonse Daudet và vở opera Djamileh. Và cũng như những lần trước đó, buổi công diễn các tác phẩm lần này của Bizet cũng đều thất bại. Tuy nhiên ngày nay, hai tác phẩm này của Bizet đã được nhìn nhận lại đúng đắn hơn. L’arlésienne được đánh giá là xuất sắc và được nhiều dàn nhạc nổi tiếng trên thế giới trình diễn liên tục nhờ vào sự đa dạng trong sắc thái và tiết tấu cũng như sự hài hoà và hấp dẫn của giai điệu còn Djamileh được coi là tiền đề và bước đệm quan trọng để Bizet sáng tạo ra kiệt tác vĩ đại nhất của mình: vở opera Carmen.

Phải hứng chịu nhiều thất bại nhưng Bizet vẫn có niềm tin vào những sáng tác của mình. Ông cho rằng khán giả vẫn chưa hiểu hết được tác phẩm của mình chứ không phải là tài năng của mình kém cỏi. Bizet quyết định dồn hết tâm huyết và tinh lực vào kịch bản Carmen do Henri Meilhac và Ludovic Halévy viết. Kich bản dựa trên tác phẩm cùng tên của nhà văn Pháp Prosper Mérimée ra đời vào năm 1846 mà Bizet rất yêu thích, ông rất có cảm tình với nhân vật cô gái digan Carmen xinh đẹp luôn khao khát tự do. Bizet mất hai năm trời (từ năm 1873 đến cuối năm 1874) mới hoàn thành vở opera này. Và so với các vở opera khác của Bizet, Carmen đã vượt trội hơn hẳn về mặt khắc hoạ bối cảnh và nhân vật. Ảnh hưởng từ các nhân vật Azucena, Eboli và Amneris của Verdi, Bizet quyết định để nhân vật chính Carmen hát giọng mezzo-soprano và bằng tài năng tuyệt vời của mình ông đã xây dựng được một Carmen với sức sống mãnh liệt và đầy biến ảo. Việc miêu tả anh lính Don Jose hiền lành chỉ vì mê mẩn sắc đẹp của Carmen mà biến mình thành một tên tướng cướp và rồi trở thành kẻ sát nhân khi đâm chết Carmen khi cô đem lòng yêu người khác là một thành công to lớn của Bizet. Bên cạnh đó, việc xuất hiện của hai nhân vật Escamillo và Micaela là sự cách tân so với tác phẩm văn học nhưng cũng góp phần làm phong phú và hoàn thiện vở opera hơn. Bizet tỏ ra rất hài lòng với Carmen và ông háo hức chờ ngày vở opera ra mắt.

Ngày 3 tháng 3 năm 1875, Carmen được công diễn tại Paris. Và như một định mệnh đau buồn gắn chặt với Bizet, đây vẫn là một thất bại. Khán giả thực sự sốc với tác phẩm. Họ không thể chịu đựng được cô gái Carmen lẳng lơ, không chung thuỷ, bỏ anh này chạy theo anh kia. Họ la ó, chửi bới các ca sĩ và cả người nhạc sĩ tội nghiệp. Lần này thì là một thảm hoạ thật sự đối với Bizet, ông suy sụp hoàn toàn. Cùng với căn bệnh đau cuống họng từ trước và cái chết của đứa con tinh thần mà ông yêu mến nhất, kì vọng nhất, sức khoẻ của Bizet ngày một yếu đi. Trên giường bệnh, Bizet luôn tự hỏi phải chăng mình đã lầm? Và sau hai cơn đau tim liên tiếp, ông qua đời vào ngày mùng 3 tháng 6 năm 1875 (sau đúng 3 tháng khi Carmen được công diễn) tại Bougival, ngoại ô Paris khi mới 37 tuổi.

Bizet đã không lầm! Ngày nay, không còn nghi ngờ gì nữa, Carmen đã trở thành một trong những vở opera tuyệt vời nhất mọi thời đại. Và cùng với nó, tài năng của Bizet đã được nhìn nhận lại một cách chính xác hơn. Các nhà soạn nhạc như Saint-Saëns, Tchaikovsky hay Debussy đều khẳng định: Bizet là một nhạc sĩ vĩ đại!





Sưu tầm

Các bài viết khác:
Ca sĩ Hoàng Oanh và kỷ niệm thời thơ ấu đẹp đẽ với nhạc sĩ Lê Thương
Ca sĩ Hoàng Oanh và kỷ niệm thời thơ ấu đẹp đẽ với nhạc sĩ Lê Thương
[ad_1] Ít ai biết được, danh ca nhạc vàng Hoàng Oanh có mối quan hệ thân thiết với cố nhạc sĩ Lê Thương. Nghệ danh của bà được lấy từ...

Khi Từ Công Phụng hát nhạc Từ Công Phụng… 
Khi Từ Công Phụng hát nhạc Từ Công Phụng… 
[ad_1] Xét ở một góc độ nào đó thì giọng hát của Từ Công Phụng với dòng nhạc của ông được được yêu thích hơn cả nhạc sĩ Trịnh Công...

Ban AVT và khúc xuân trào phúng bất hủ: “Tết nhất làm chi, Ai bày Tết nhất làm chi?”
Ban AVT và khúc xuân trào phúng bất hủ: “Tết nhất làm chi, Ai bày Tết nhất làm chi?”
[ad_1] BAN TAM CA TRÀO PHÚNG AVT Thể loại: Trào phùng Thành viên: ca nhạc sĩ Anh Linh (guitar), Vân Sơn (trống) và Tuấn Đăng (contrebasse) Hoạt động: 1958 -...

Nhạc sĩ Y Vân: Đa tình trong âm nhạc, chỉn chu trong đời thường
Nhạc sĩ Y Vân: Đa tình trong âm nhạc, chỉn chu trong đời thường
[ad_1] HỒ SƠ TIỂU SỬ NHẠC SĨ Y VÂN Tên thật: Trần Tấn Hậu Nghệ danh: Y Vân, Tuấn Vũ, Thy Vân Năm sinh - năm mất:  1933 - 1992...

“Trăng rụng xuống cầu” của Hoàng Thi Thơ: Bức tranh quê hương ấm áp tình quân dân
“Trăng rụng xuống cầu” của Hoàng Thi Thơ: Bức tranh quê hương ấm áp tình quân dân
[ad_1] CA KHÚC "TRĂNG RỤNG XUỐNG CẦU” Tên các khúc: Trăng rụng xuống cầu  Nhạc sĩ: Hoàng Thi Thơ Năm phát thành: 1956 Ca sĩ trình bày tiêu biểu:  Ngọc...

Danh ca Họa Mi: “Tôi mang ơn nhạc sĩ Lam Phương”
Danh ca Họa Mi: “Tôi mang ơn nhạc sĩ Lam Phương”
[ad_1] Danh ca Họa Mi chia sẻ, lần đầu tiên bà được gặp nhạc sĩ Lam Phương là vào cuối thập niên 1980, khi ấy bà mới sang Pháp sau...

Nhạc sĩ Văn Phụng – “bậc thầy” hòa âm của làng tân nhạc Việt Nam
Nhạc sĩ Văn Phụng – “bậc thầy” hòa âm của làng tân nhạc Việt Nam
[ad_1] HỒ SƠ TIỂU SỬ NHẠC SĨ VĂN PHỤNG Tên đầy đủ: Nguyễn Văn Phụng Nghệ danh: Không có Ngày sinh - ngày mất: 1930 - 1999 Quê quán: Nam...

Ca khúc “Chiều tím” của Đan Thọ: Một bản tình ca mang những đặc tính “độc nhất vô nhị”
Ca khúc “Chiều tím” của Đan Thọ: Một bản tình ca mang những đặc tính “độc nhất vô nhị”
[ad_1] VỀ CA KHÚC "CHIỀU TÍM" Tên ca khúc: Chiều tím Hoàn cảnh sáng tác: Đan Thọ - Đinh Hùng Thể loại: Nhạc trữ tình Năm ra đời: Trước 1967...

“Đêm cuối cùng” – nhạc phẩm khởi đầu cho giai đoạn sáng tác toàn bi ca của Phạm Đình Chương
“Đêm cuối cùng” – nhạc phẩm khởi đầu cho giai đoạn sáng tác toàn bi ca của Phạm Đình Chương
[ad_1] CA KHÚC "ĐOẠN CUỐI CÙNG" Sáng tác: Phạm Đình Chương Thể loại: Nhạc trữ tình Năm ra đời: Đầu thập niên 1960 Ca sĩ thể hiện tiêu biểu: Thái...

Nhạc sĩ Duy Khánh và chùm ca khúc nặng lòng thương nhớ xứ Huế
Nhạc sĩ Duy Khánh và chùm ca khúc nặng lòng thương nhớ xứ Huế
[ad_1] Duy Khánh là một trường hợp hiếm hoi của nền tân nhạc Việt Nam khi vừa mới chân ướt chân ráo bước vào nghề ca hát đã với tay...

NHỊP LẤY ĐÀ LÀ GÌ? VÍ DỤ VỀ NHỊP LẤY ĐÀ
NHỊP LẤY ĐÀ LÀ GÌ? VÍ DỤ VỀ NHỊP LẤY ĐÀ
[ad_1] Nhịp lấy đà là gì? Nhịp lấy đà là ô nhịp đầu tiên trong bản nhạc không đủ số phách theo quy định của số chỉ nhịp. Sự khác nhau...

Phỏng vấn nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm: “Viết nhạc đã trở thành một nghiệp dĩ đối với tôi”
Phỏng vấn nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm: “Viết nhạc đã trở thành một nghiệp dĩ đối với tôi”
[ad_1] Vào tháng 7/2008, Tuần báo Văn Nghệ đã có một buổi phỏng vấn với nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm. Trong buổi phỏng vấn này, nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm...

Mối tình văn nghệ giữa nhạc sĩ Diệu Hương và nam ca sĩ Quang Dũng
Mối tình văn nghệ giữa nhạc sĩ Diệu Hương và nam ca sĩ Quang Dũng
[ad_1] Những ai yêu mến âm nhạc của Diệu Hương chắc hẳn đều biết đến Quang Dũng, đó là sự kết hợp hoàn, đưa danh tiếng của cả hai bay...

Ray rứt nhói lòng hình ảnh “uống nước dừa hay nước mắt quê hương” trong nhạc khúc “Những ngày xưa thân ái”
Ray rứt nhói lòng hình ảnh “uống nước dừa hay nước mắt quê hương” trong nhạc khúc “Những ngày xưa thân ái”
[ad_1]  CA KHÚC "NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI" Sáng tác: Phạm Thế Mỹ Thể loại: Nhạc trữ tình Năm ra đời: 1957 Ca sĩ thể hiện tiêu biểu: Thanh Lam,...

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA FRITZ KREISLER (1875-1962)
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA FRITZ KREISLER (1875-1962)
[ad_1] “Thiên tài là từ thường bị lạm dụng. Thế giới chỉ ghi nhận được khoảng nửa tá thiên tài. Tôi chỉ mấp mé mức đó thôi.” – Fritz Kreisler Trong...