CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA ARAM KHACHATURIAN (1903-1978)


Aram Illyich Khachaturian sinh ngày 24 tháng 5 (theo lịch mới là 6 tháng 6 năm 1903 tại Tiflis (ngày nay là Tbilisi, thủ đô Gruzia), mất ngày 1 tháng 5 năm 1978 tại Moscow.

Tiểu sử Aram Khachaturian, nhà soạn nhạc vĩ đại người Armenia, rất thú vị. Ông sinh ra tại Tifflis, thủ đô Gruzia, trong gia đình thợ đóng sách người Armenia. Cha mẹ ông không hề học nhạc, nhưng là những người rất tài năng trong lĩnh vực này, vì thế ngôi nhà của họ luôn tràn đầy các giai điệu âm nhạc, các bài ca và những điệu múa. Nhà soạn nhạc tương lai yêu thích âm nhạc từ thuở ấu thơ, biết chơi các nhạc cụ dân gian từ rất sớm, tuy vậy cho đến tận năm 19 tuổi Aram không hề học nhạc lý, cũng không hề có khái niệm gì về nhạc giao hưởng và opera.

Aram Illyich Khachaturian (1903 – 1978)

“Tifflis xưa là một thành phố âm nhạc”, ông hồi tưởng về thành phố tuổi thơ của mình. “Để có thể đắm mình vào không gian âm nhạc, tạo thành từ rất nhiều nguồn khác nhau, người ta chỉ cần đi theo các con phố nhỏ rời xa trung tâm thành phố một chút…” Hồi đó, trong thành phố có chi nhánh của Hội Âm nhạc Nga, Học viện Âm nhạc và nhà hát Opera Italia. Các nghệ sĩ lớn như Fedor Saliapin, Sergei Rachmaninov, Konstantin Igumnov từng biểu diễn ở đây. Thành phố này cũng là nơi hoạt động của các nhà soạn nhạc về sau sẽ đóng vai trò chủ chốt trong sự xuất hiện của trường phái âm nhạc Gruzia và Armenia.Năm 1921 cùng với một nhóm thanh niên Armenia, Aram Khachaturian đến Moscow, thi vào khoa dự bị để sau đó dự thi vào khoa Toán-Lý đại học Tổng hợp Moscow. Một năm sau, năm 1922, Khachaturian một mình thi vào lớp cello Học viện Âm nhạc mang tên Anh em Gnessin, nơi ông nhận được sự giúp đỡ tận tình và nguồn cổ vũ mạnh mẽ từ các nhà sư phạm âm nhạc tài danh thời đó. Chàng trai Armenia tài năng lọt vào mắt xanh của Mikhail Gnessin và được nhà soạn nhạc này giúp đỡ rất nhiều trong học tập. Tại Moscow, lần đầu tiên trong đời Aram Khachaturian đi nghe hoà nhạc và biết đến nhạc giao hưởng.

Sự nghiệp của Khachaturian với tư cách là nhà soạn nhạc được xác định dứt khoát vào năm 1925, khi trong Học viện Gnessin xuất hiện lớp soạn nhạc. Khachaturian đã nhận được các kiến thức đầu tiên về soạn nhạc tại đây. Các tác phẩm của Beethoven và Rachmaninov làm rung động tâm hồn ông và cho ông nguồn cảm hứng để viết nên tác phẩm đầu tay “Vũ điệu cho violin và piano”. David Oistrakh viết về tác phẩm này của Khachaturian như sau: “Là một nghệ sĩ vĩ cầm, tôi tự hào là “Vũ điệu…” – tác phẩm đầu tay của Aram Khachaturian, được viết cho violin. Nhà soạn nhạc vĩ đại hiểu cây vĩ cầm như một nghệ sĩ vĩ cầm thực thụ”.

Tác phẩm đầu tay này đã thể hiện những nét đặc trưng cho phong cách của Khachaturian: tính ngẫu hứng, đa dạng, các thủ thuật biến cách, các thủ thuật để đạt được hiệu ứng màu âm của các nhạc cụ truyền thống phương Đông, và nhất là các ostinato được mệnh danh là “khoảnh khắc Khachaturian”. Về sau chính nhà soạn nhạc đã viết: “Các khoảnh khắc đó tôi đã từng nhiều lần nghe thấy trong tuổi thơ, trong âm vang của các nhạc cụ dân gian như buben, kermancha hay sazandar-tar…”Năm 1929 Khachaturian thi vào Nhạc viện Moscow, theo học lớp soạn nhạc dưới sự hướng dẫn của nhà sư phạm âm nhạc Nikolai Iakovlevich Miaskovsky. Cùng năm này Khachaturian gia nhập dàn nhạc giao hưởng Nhạc viện Moscow.

Việc S. Prokofiev thăm lớp soạn nhạc của Miaskovsky năm 1933 có ảnh hưởng lớn đến Khachaturian. Về phần mình, các sáng tác đầu tay của nhà soạn nhạc trẻ tuổi cũng khiến S.Prokofiev quan tâm đặc biệt, tới mức ông mang chúng theo trong chuyến đi Paris của mình và tại đây các tác phẩm này đã được trình diễn.

Trong thời gian này Khachaturian chuyển hướng từ các tác phẩm nhỏ tới các hình thức lớn hơn. Năm 1932 ông hoàn thành Suite dành cho piano, mà phần đầu tiên “Tokkata” sau này trở nên rất nổi tiếng, được nhiều nghệ sĩ piano tài năng thể hiện. Năm 1933 ra đời tác phẩm Suite dành cho dàn nhạc giao hưởng, cũng được giới âm nhạc đánh giá cao. Năm 1934 ông tốt nghiệp Nhạc viện và bắt đầu học nghiên cứu sinh. Tên họ của ông được khắc bằng chữ vàng trên một tấm bảng treo bên lối vào phòng hoà nhạc nhỏ của Nhạc viện.Năm 1935 tại phòng hoà nhạc của Nhạc viện Moscow bản giao hưởng số 1 của Khachaturian được dàn nhạc biểu diễn dưới sự chỉ huy của E. Senkar. Bản giao hưởng này được coi như tác phẩm tốt nghiệp của Khachaturian. Nó đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời nhà soạn nhạc và mở đầu một giai đoạn mới.

Năm 1937 “concerto dành cho piano và dàn nhạc” của Khachaturian lần đầu tiên được trình diễn. Cùng với các tác phẩm trước đó, bản concerto đã mang lại cho ông vinh quang trên toàn thế giới. Trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của Khachaturian sáng tác trước chiến tranh Vệ quốc có Giao hưởng số 2. Trong Chiến tranh Vệ quốc ông làm việc cho Đài phát thanh Liên Xô, viết các ca khúc có nội dung ái quốc và các hành khúc. Sau chiến tranh ông trở lại với nhạc cổ điển và viết nên những tác phẩm lớn mang tầm cỡ thế giới.Khachaturian đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của mình trong các thập kỷ tiếp theo. Ông dành mối quan tâm lớn cho việc sáng tác nhạc nền cho các tác phẩm kịch nói, mà nổi bật nhất là nhạc nền cho các vở Bà goá thành Valencia của Lope de Vega (1940) và Dạ hội hóa trang của Lermontov (1941). Các suite viết trên cơ sở nhạc nền của các vở kịch này về sau trở thành các tác phẩm âm nhạc độc lập và thường xuyên được trình diễn trong các chương trình hoà nhạc lớn.

Khachaturian cũng hiểu rõ tầm quan trọng của âm nhạc trong cấu trúc một tác phẩm điện ảnh và coi trọng việc sáng tác nhạc nền cho phim điện ảnh. Ông đã viết cho điện ảnh rất nhiều, đáng kể nhất phải nói đến nhạc nền các phim Pepo và “Zangezar, bởi các tác phẩm này đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp của Khachaturian. Tuy nhiên, tài năng thiên bẩm của ông thể hiện trọn vẹn ở các tác phẩm giao hưởng. Các bản concerto cho piano với dàn nhạc (1936) và violin với dàn nhạc (1940) thành công vang dội, thể hiện sự tiếp tục và phát triển nâng cao các xu hướng đã bước đầu hình thành trong các suite trước đó và trong Giao hưởng số 1, về sau này chúng trở thành những đặc điểm chính làm nên phong cách của Khachaturian. Trong thể loại concerto ông cũng có những sáng tạo và cách tân độc đáo và táo bạo.Cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô bắt đầu năm 1941, khi Khachaturian đã nổi tiếng và được xếp vào hàng các nhà soạn nhạc lớn của đất nước. Trong thời kỳ chiến tranh bất chấp mọi khó khăn gian khổ, ông vẫn say mê tìm tòi sáng tạo, nhiều tác phẩm của ông vẫn nối tiếp nhau ra đời và được trình diễn.

Vở ballet Armenia đầu tiên với nhan đề Hạnh phúc được Khachaturian viết từ năm 1939, nhưng những khiếm khuyết của libretto khiến nhà soạn nhạc phải viết lại âm nhạc hầu như từ đầu, và trên cơ sở đó vở Gayane viết theo libretto của K. Derzhavin được hoàn thành. Trong tác phẩm này Khachaturian kết hợp một cách tài hoa các truyền thống của ballet cổ điển với nghệ thuật ca vũ kịch dân gian. Ballet Gayane cho đến ngày nay vẫn thường xuyên được trình diễn trong các nhà hát nổi tiếng trên toàn thế giới. Buổi biểu diễn ra mắt của vở ballet này được tổ chức vào ngày 3 tháng 12 năm 1942, đúng vào những ngày tháng khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh Vệ quốc. Ba suite do Khachaturian sáng tác trên cơ sở âm nhạc của Gayanecũng trở thành các tác phẩm độc lập được nhiều người mến mộ. Năm 1943 tác phẩm được trao giải thưởng Stalin hạng nhất – một trong những giải thưởng lớn nhất của nhà nước Liên Xô trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Chỉ một thời gian ngắn sau đó vở ballet Gayane đã nổi tiếng trên toàn thế giới.

Năm 1943 Khachaturian hoàn thành Giao hưởng số 2. Trong tác phẩm viết vào thời chiến này thể hiện những khía cạnh mới, rất độc đáo của tài năng và sáng tạo. Âm nhạc được làm giàu thêm bởi những sắc màu mới, mang tính hoành tráng và bi hùng. “Giao hưởng số 2 của Khachaturian là tác phẩm đầu tiên của nhà soạn nhạc thiên tài, trong đó cái bi được nâng lên một tầm cao đến như thế,” – D.Shostakovich viết. “Tuy nhiên, bất chấp bản chất bi kịch của nó, cả tác phẩm vẫn tràn đầy lạc quan và niềm tin vào chiến thắng. Sự kết hợp tính bi kịch và sức sống tràn đầy trong tác phẩm này cho nó một sức mạnh truyền cảm lớn”.

Mùa hè năm 1946 nhà soạn nhạc vĩ đại hoàn thành bản concerto cho cello, được nghệ sĩ S.Knushevitsky trình bày tại Moscow và thành công vang dội. Cùng thời gian đó ông viết một loạt các ca khúc nghệ thuật phổ thơ các nhà thơ nổi tiếng của Armenia. Nếu như concerto luôn là thể loại yêu thích của nhạc sĩ thì loạt các ca khúc này có thể nói là thử nghiệm đầu tiên của ông trong thể loại ca khúc nghệ thuật.

Năm 1956 đánh dấu sự thành công của một trong những tác phẩm vĩ đại nhất trong sự nghiệp của Aram Khachaturina – vở ballet Spartacus. Xét về chiều sâu ý tưởng, về độ chói sáng của hình tượng nghệ thuật, về tính hoành tráng của tác phẩm kịch nghệ và những cách tân và sự dũng cảm trong cách giải quyết các vấn đề học thuật trong nghệ thuật nhạc kịch đương đại, vở Spartacus đáng được xếp vào hàng những vở ballet lớn nhất thế kỷ XX. Ballet Spartacus trở thành tác phẩm lớn nhất của Khachaturian thời hậu chiến. Tổng phổ của nó đã được nhà soạn nhạc hoàn thành vào năm 1945, nhưng đến tháng 12 năm 1956 mới được công diễn lần đầu tiên. Từ đó trở đi vở diễn liên tục có mặt trên sân khấu nhiều nhà hát danh giá nhất thế giới.

Đồng thời Khachaturina cũng làm việc nhiều với nhà hát và điện ảnh. Nhạc nền cho vở kịch nói Vũ hội giả trang của M.Iu. Lermontov được đánh giá cao. Giai điệu của nhiều ca khúc do ông sáng tác trở nên rất được ưa chuộng và trở thành những bài hát yêu thích của nhiều thế hệ.

Các tác phẩm điện ảnh Xô viết do ông sáng tác nhạc nền cũng trở nên rất nổi tiếng. Đó là các phim như PepoVladimir Illyich LeninĐô đốc UshakovTrận Stalingrad

Từ năm 1950 Khachaturian còn làm việc với dàn nhạc với tư cách nhạc trưởng và đi biểu diễn tại nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, ông trở thành giáo sư Nhạc viện Moscow và ĐH Sư phạm âm nhạc mang tên anh em Gnessin.Năm 1956 Khachaturian được nhận giải thưởng Lênin cho toàn bộ sự nghiệp của mình. Ông tiếp tục sáng tác hầu như đến cuối đời, nhưng các tác phẩm sau này như các concerto cho violin, cello, piano và dàn nhạc (1961, 1963, 1967), các sonata cho cello, violin và alto (1974, 1975, 1976) đã không vượt qua được đỉnh cao sáng tạo của các năm trước đó.

Nhà vô địch cờ vua Thế giới Tigran Petrosian với nhà soạn nhạc nổi tiếng Aram Khachaturian

Khachaturian dành nhiều công sức cho sự nghiệp giáo dục, suốt một thời gian dài giảng dạy lớp soạn nhạc tại Nhạc viện Moscow và ĐH SP Âm nhạc mang tên Anh em Gnessin. Ông phát triển lên đến đỉnh cao các nguyên tắc sư phạm của thầy mình là Miaskovsky, cùng với kinh nghiệm sáng tạo của cá nhân, ông trở thành người sáng lập một trường phái soạn nhạc – trường phái Khachaturian.

Khachaturian cũng đạt được những thành công nhất định trong vai trò nhạc trưởng, dù ông trở thành nhạc trưởng một cách tình cờ: Trong buổi hoà nhạc với sự tham gia của nghệ sĩ nổi tiếng Leonid Kogan mừng Viện sĩ Vavilov những người tổ chức muốn mời ông đích thân chỉ huy dàn nhạc. Thành công của buổi hoà nhạc đó mở đầu cho sự nghiệp của Khachaturian với tư cách nhạc trưởng.

Đời tư của nhà soạn nhạc vĩ đại không nhiều sóng gió. Người vợ đầu tiên sinh cho ông một cô con gái – Nune Aramovna Khachaturian, về sau trở thành một nghệ sĩ piano. Năm 1933 ông cưới vợ lần thứ hai, bà Nina Makarova cùng học với ông trong lớp của Miaskovky. Từ cuộc hôn nhân thứ hai và rất hạnh phúc này ông có một con trai, Karen Khachaturian, hiện là một nhà nghiên cứu nghệ thuật nổi tiếng.

Trong đời hoạt động nghệ thuật của mình Aram Khachaturian nhận được nhiều giải thưởng lớn của quốc gia và quốc tế. Năm 1963 ông được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học nước cộng hoà Armenia, viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Âm nhạc Italia Santa Cecilia (1960), giáo sư danh dự Nhạc viện quốc gia Mexico (1960), Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hoà Dân chủ Đức (1960). Ông được trao danh hiệu Giáo sư, Tiến sĩ nghệ thuật năm 1965.

(Nguồn: nhaccodien.info)





Sưu tầm

Các bài viết khác:
Hoàn cảnh ra đời “Thằng Cuội”: Ca khúc thiếu nhi hay nhất của nhạc sĩ Lê Thương
Hoàn cảnh ra đời “Thằng Cuội”: Ca khúc thiếu nhi hay nhất của nhạc sĩ Lê Thương
[ad_1] VỀ CA KHÚC "THẰNG CUỘI" Tên ca khúc: Thằng Cuội Nhạc sĩ sáng tác: Lê Thương Thể loại: Nhạc thiếu nhi Năm ra đời: Thập niên 1950 Ca sĩ...

Ca khúc “Kiếp dã tràng” của Từ Công Phụng: Số kiếp con người đôi khi cũng chẳng khác gì kiếp dã tràng!
Ca khúc “Kiếp dã tràng” của Từ Công Phụng: Số kiếp con người đôi khi cũng chẳng khác gì kiếp dã tràng!
[ad_1] CA KHÚC "KIẾP DÃ TRÀNG" Tên ca khúc: Kiếp dã tràng Sáng tác: Từ Công Phụng Thể loại: Tình ca Năm ra đời: 1968 Ca sĩ thể hiện tiêu...

Ca khúc “Sao không thấy anh về”: Một chờ, hai đợi, ba nhớ người thương
Ca khúc “Sao không thấy anh về”: Một chờ, hai đợi, ba nhớ người thương
[ad_1] CA KHÚC "THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG" Tên ca khúc: Thương về miền Trung Nhạc sĩ: Duy Khánh Thể loại: Nhạc vàng Năm ra đời: 1962 Ca sĩ thể hiện...

Chuyện tình nhạc sĩ Văn Cao: Trọn đời trọn kiếp chỉ một người!
Chuyện tình nhạc sĩ Văn Cao: Trọn đời trọn kiếp chỉ một người!
[ad_1] Nơi khởi nguồn tình yêu của đôi trai tài gái sắc Vào năm 1993, trong buổi nói chuyện với nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã, khi được hỏi về vợ...

Hoàn cảnh ra đời ca khúc “Hoài cảm”: Nỗi nhớ cố xứ da diết của cậu nhạc sĩ tuổi 15
Hoàn cảnh ra đời ca khúc “Hoài cảm”: Nỗi nhớ cố xứ da diết của cậu nhạc sĩ tuổi 15
[ad_1] VỀ CA KHÚC HOÀI CẢM Tên ca khúc: Hoài cảm Thể loại: Nhạc trữ tình Năm ra đời: 1953 Nằm trong album: Ca sĩ thể hiện tiêu biểu: Danh...

Nghệ sĩ Thành Được và “sầu nữ” Bạch Lan: Cuộc “hôn thơ giá thú” đầu tiên trong giới nghệ sĩ tan vỡ vì “máu hoạn thư”?
Nghệ sĩ Thành Được và “sầu nữ” Bạch Lan: Cuộc “hôn thơ giá thú” đầu tiên trong giới nghệ sĩ tan vỡ vì “máu hoạn thư”?
[ad_1] Khi đứng chung một sân khấu, hai cái tên Thành Được - Út Bạch Lan được xem như biểu tượng khó có thể thay thế của nghệ thuật cải...

Nhạc sĩ Doãn Mẫn trăn trở về bản sắc Việt Nam trong nhạc Việt
Nhạc sĩ Doãn Mẫn trăn trở về bản sắc Việt Nam trong nhạc Việt
[ad_1] Nhạc sĩ Doãn Mẫn là một trong những “cánh chim đầu đàn” của nền tân nhạc Việt Nam, là tấm gương mẫu mực về lao động nghệ thuật. Ông...

“Bộ đội về làng”: Bài thơ hay nhất của Hoàng Trung Thông và ca khúc thành công nhất của Lê Yên
“Bộ đội về làng”: Bài thơ hay nhất của Hoàng Trung Thông và ca khúc thành công nhất của Lê Yên
[ad_1] VỀ CA KHÚC "BỘ ĐỘI VỀ LÀNG" Tên ca khúc: Bộ đội về làng Nhạc sĩ sáng tác: Lê Yên Thể loại: Nhạc tiền chiến Năm ra đời: 1950...

Lời bái hát “Thương tình ca” của nhạc sĩ Phạm Duy
Lời bái hát “Thương tình ca” của nhạc sĩ Phạm Duy
[ad_1] "Thương tình ca" được nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác một năm trước khi bắt đầu chuyện tình cảm với cô gái trẻ Alice. Amnhac. Trong hồi ký của...

Nhạc phẩm “Ngăn cách” – “lỡ tình ca” của Y Vân ra đời sau ngày mối tình đầu lên xe hoa
Nhạc phẩm “Ngăn cách” – “lỡ tình ca” của Y Vân ra đời sau ngày mối tình đầu lên xe hoa
[ad_1] NHẠC PHẨM "NGĂN CÁCH" Tên ca khúc: Ngăn cách Nhạc sĩ sáng tác: Y Vân Thể loại: Tình ca Năm ra đời: 1962 Ca sĩ thể hiện tiêu biểu:...

Nhạc sĩ Hoàng Trọng: Ông “vua tango” rực sáng trên bầu trời tân nhạc Việt
Nhạc sĩ Hoàng Trọng: Ông “vua tango” rực sáng trên bầu trời tân nhạc Việt
[ad_1] HỒ SƠ TIỂU SỬ NHẠC SĨ HOÀNG TRỌNG Tên thật: Hoàng Trung Trọng Nghệ danh: Hoàng Trọng Ngày sinh: 1922 - 1998 Quê quán: Hải Dương Nghề nghiệp: Nhạc...

“Trùm Sò” Giang Châu: Ngôi sao của sân khấu lớn phải hạ mình hát đám ma
“Trùm Sò” Giang Châu: Ngôi sao của sân khấu lớn phải hạ mình hát đám ma
[ad_1] HỒ SƠ - TIỂU SỬ NSND GIANG CHÂU Tên khai sinh: Trần Ngọc Châu Nghệ danh: Giang Châu Biệt danh: Trùm Sò NS - NM: 1952 - 2019 Quê...

“Giết người trong mộng” – ca khúc huyền bí được Phạm Duy phổ nhạc từ ý thơ của Hàn Mặc Tử
“Giết người trong mộng” – ca khúc huyền bí được Phạm Duy phổ nhạc từ ý thơ của Hàn Mặc Tử
[ad_1] CA KHÚC "GI.ẾT NGƯỜI TRONG MỘNG" Tên ca khúc: Gi.ết người trong mộng Thơ: "Lang thang" - Hàn Mặc Tử Phổ nhạc: Phạm Duy Thể loại: Trữ tình Năm...

Vì sao nhạc sĩ Phạm Duy từng đập đàn cấm con đi hát?
Vì sao nhạc sĩ Phạm Duy từng đập đàn cấm con đi hát?
[ad_1] Phạm Duy là nhạc sĩ tài hoa, sáng tác không ngừng nghỉ. Đặc biệt, ông miệt mài nghiên cứu, đưa các yếu tố nền tảng của âm nhạc cổ...

Mối tình nghệ sĩ Thanh Thúy – Trúc Phương: Đưa nhau lên đỉnh cao âm nhạc, trở thành “ông hoàng – bà hoàng” bolero
Mối tình nghệ sĩ Thanh Thúy – Trúc Phương: Đưa nhau lên đỉnh cao âm nhạc, trở thành “ông hoàng – bà hoàng” bolero
[ad_1] Vào thập niên 1960, tên tuổi nhạc sĩ Trúc Phương và danh ca Thanh Thúy gắn với nhau như hình với bóng, trở thành sự kết hợp thành công...