CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA JOSEPH HAYDN (1732-1809)


“Haydn là một mắt xích vô cùng vững chắc và quan trọng trong lịch sử phát triển của âm nhạc. Không có Haydn thì cũng không có Mozart và Beethoven.” – P.I. Tchaikovsky

Franz Joseph Haydn sinh ngày 31 tháng 3 năm 1732 trong một gia đình thợ thủ công tại Rohrau , miền Nam nước Áo. Mặc dầu cậu bé Haydn được sinh ra trong một gia đình không có truyền thống về âm nhạc nhưng với chất giọng thiên phú, cậu được gửi đi học ông Johann Matthias Franck, Hainburg. Khả năng ca hát và cảm thụ âm nhạc của Haydn đã khiến nhà soạn nhạc Georg von Reutter chú ý tới. Georg vốn là người chỉ huy và dàn dựng dàn hợp xướng của nhà thờ thánh Stephen ở Vienna; tại đây Haydn hát bè soprano trong suốt 11 năm tiếp theo cho đên khi ông bị vỡ giọng năm 1749.

Joseph Haydn (1732-1809)

Haydn đã có nhiều kinh nghiệm và am hiểu đối với âm nhạc tôn giáo trong thời gian còn tham dự trong dàn hợp xướng đó. Nhưng rồi ông sớm nhận thấy rằng vì chỉ là một ca sĩ nên ông còn phải học hỏi rất nhiều những thầy giáo có trình độ đề bù đắp lượng kiến thức âm nhạc còn thiếu. Lúc này cuộc sống của ông rất khó khăn nhưng ông đã học rất chăm chỉ và bắt đầu sáng tác nhạc theo hợp đồng. Nhưng chỉ còn lại bản Missa brevis cung Fa trưởng ( 1749-50) trong giai đoạn này là còn lại. Có lẽ nó được sáng tác một thời gian ngắn sau các Missa khác và bản Salve regina viết cho soprano, hợp xướng và dàn nhạc dây.

Năm 1751 Haydn đã gây tiếng vang với vở Der krumme Teufel, libretto do Joseph F.Kurz viết dựa trên Le diable boiteux của Lesage. Tác phẩm xuất sắc với các cảnh hài này giúp ông có kinh nghiệm giá trị trong việc sáng tác thể loại opera buffa. Thời gian này ông sống trên một gác xép của một căn nhà – nơi thi sĩ Pietro Metastasio người Ý sống dưới tầng một. Điều này mang lại lợi ích to lớn cho chính Haydn vì Metastasio đã giới thiệu ông cho Maria Anna Martinez với tư cách là một giáo viên dạy đàn phím. Những năm tiếp theo thú vị và thuận lợi cho Haydn khi ông được gặp những nhân vật quan trọng trong giới âm nhạc: Ông gặp Popora – giảng viên thanh nhạc, Gluck và Karl Ditters von Dittersdorf – một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ biểu diễn violin ; ông được giới thiệu với giáo viên dạy harpsichord Wagensei; ngoài ra ông có vinh dự được gặp gỡ Maria Theresia của Áo. Haydn đã tiếp thu mọi thể loại âm nhạc khác nhau từ opera seria của Ý cho tới phong cách giao hưởng kiểu Đức. Những tác phẩm trong giai đoạn này bao gồm: 1 giao hưởng, nhiều divertimento cho nhạc cụ, và sonate cho đàn phím đầu tiên. Sáu bản tứ tấu dây đầu tiên của ông được sáng tác từ năm 1755 đến 1760; những bản này mang mọi yếu tố trong phong cách sáng tác đặc thù của Haydn hướng đến thể loại mới này.

Năm 1759 Haydn đảm nhiệm hai chức vụ quan trọng: chỉ huy âm nhạc và nhà soạn nhạc thính phòng. Ông làm việc cho bá tước Ferdinand Maximilian Morzin, dành phần lớn thời gian tại Vienna và nghỉ ngơi tại vùng đất của bá tước ở Bohemia – nơi có dàn nhạc dây và sáo được thành lập. Bản giao hưởng số 1, 2, 5 đã được viết cho dàn nhạc ở đây chơi. Haydn giữ chức vụ này trong suốt 2 năm cho đến khi Bá tước yêu cầu giải thể dàn nhạc vì lý do tài chính. Cuộc đời của nhà soạn nhạc đã có một bước ngoặt mới. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1761, ông đã kí hợp đồng với Paul Anton Esterhazy. Nhưng ít sáng suốt hơn, ông cũng đính ước một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Các Ông hoàng Esterhazy đã có một mối quan hệ thân thiết với vương triều Hapsburg hùng mạnh. Họ là những người thuộc dòng dõi quý tộc mà cung điện của họ tại Eisenstadt rất tráng lệ với cả một quân đội riêng. Khi Paul Anton chết vào năm 1762, quyền lực trao lại cho người anh Nikolas có biệt danh “Người vĩ đại“ bởi những suy nghĩ, ý tưởng lớn lao.

Chân dung Franz Joseph Haydn (1732-1809)

Haydn đã được phong làm vice -Kapellmeister (phụ tá chỉ huy dàn nhạc và hợp xướng) ở Eisenstadt. Việc này đã khiến ông được toàn bộ thành viên trong dàn nhạc kính nể cho dù Kapellmeister tỏ thái độ thù nghịch đối với ông. Mối quan hệ mới với ông hoàng này không phải lúc nào cũng suôn sẻ, nhưng với niềm đam mê âm nhạc đã giúp Haydn có thêm nhiều kinh nghiệm sáng tác và chỉ huy, bởi dù sao ông cũng không còn lo lắng về tài chính nữa. Ông hoàng mới tỏ ra yêu thích “đàn barytone“ , một kiểu đàn viola da gamba đang là mốt thời đó và không có gì đáng ngạc nhiên khi Haydn viết 126 trios và 25 duets cho đàn barytone và dàn nhạc dây. Điều này cũng phù hợp với thị hiếu âm nhạc và trình độ của nhạc công thời bấy giờ.

Những tác phẩm quan trọng hơn của Haydn thời kì này bao gồm 3 giao hưởng có tiêu đề: Số 6 “Buổi sáng“, số 7 “Buổi trưa“, số 8 “Buổi tối”; cũng như các giao hưởng số 13, 22, 31 và 40. Tất cả những tác phẩm trên được viết cho đàn dây, bè trầm đánh số, một số ít nhạc cụ gỗ. Một số các concerto được viết ra nhằm trưng trỗ kĩ thuật của nhạc công mà Haydn có thể sử dụng ở bất kì một sự kiện nào đó, ví dụ cho các buổi trình diễn âm nhạc hằng ngày của Nikolas. Haydn đã sáng tác ít nhất là 100 trio cho Nikolas trong suốt thời gian sống tại Eisenstadt.

Năm 1766 , Ông hoàng rời bỏ Eisenstadt đến Esterhaz, nơi một cung điện, một nhà hát, một nhà thờ và công viên được xây dựng mới. Để tương xứng với các công trình đồ sộ này, Nikolas đã quyết định tăng số lượng thành viên trong dàn nhạc lên 20 người với sự tham gia của trumpet, flute, basson và timpani. Được phong làm Kapellmeister (Nhạc trưởng) sau cái chết của Werne, giờ đây ông chịu trách nhiệm đối với toàn bộ các hoạt động âm nhạc tại đây. Khối lượng làm việc trong suôt 30 năm tại Esterhaz quả thật phi thường; thêm vào đó, ông còn dàn dựng vài trăm buổi biểu diễn opera Ý và viết 11 vở kịch melo (trong đó có vở Đảo hoang, libretto do Metastasio viết) và 5 opera cho nhà hát ở đây. Các tác phẩm tôn giáo của Haydn cũng khá nhiều (Missa Sancta Caeciliae, Missa Collensis, Stabat Mater), nhưng thể loại giao hưởng và tứ tấu vẫn chiếm vai trò chính trong các công trình sáng tạo của ông. Các bản giao hưởng nổi tiếng nhất được viết tại Esterhaz gồm có số 44 (Trauersymphonie – Giao hưởng tang lễ), số 45 (Tạm biệt), số 49 (Say mê), số 73 (Đi săn). Âm nhạc của Haydn đã được biết đến trên toàn châu Âu; uy tín và tiếng tăm của ông đã được xác nhận khi các tác phẩm bắt đầu được trình diễn thường xuyên tại Paris, Amsterdam, Vienna và Berlin.

Khi dàn nhạc giải thể sau cái chết của Nikolas năm 1790, Haydn không mấy khó khăn để tìm một công việc mới. Johann Peter Salomon – nghệ sĩ violin Đức và người tổ chức chương trình âm nhạc đã nhanh chóng thuyết phục ông tham gia. Trong suốt chuyến viếng thăm ngắn ngủi tại London lần đầu tiên (từ tháng 1 năm 1791 đến tháng 6 năm 1792) Haydn đã chỉ huy nhiều buổi hòa nhạc của Salomon, được giới thiệu tại hoàng cung, được nghe thanh xướng kịch của Handel cũng như được trao học vị tiến sĩ âm nhạc bởi trường Đại học Oxford. Nhân sự kiện trọng thể này, Haydn đã sửa đổi bản Giao hưởng số 92 của mình và nó đã được biết với cái tên: Giao hưởng Oxford. Nó đã được trình diễn trong một đêm hoà nhạc những tác phẩm của Haydn gồm có thêm madrigal cho hợp xướng và dàn nhạc (Cơn bão), Giao hưởng số 93, 98, Sinfonia concertante cho oboe, basson, violon, cello và dàn nhạc.

Rời London giữa năm 1792, Haydn quay trở lại Vienna và Bonn. Ông đã gặp và động viên Ludwig van Beethoven – người đã đi theo ông tới Vienna thời gian sau đó. Tuy nhiên ông không ở đó lâu dài. Sau khi viết xong Tứ tấu dây op.71 và 74, Các biến tấu cho đàn phím ( Fa thứ ), 1 giao hưởng… ông quay lại London vào năm 1794 và ở đó cho đến tháng 8 năm 1795, cũng gây tiếng vang và thành công như chuyến thăm lần đầu tiên. Các giao hưởng của ông được trình diễn nhiều hơn: bản số 99 và 104 có lẽ là những bản giao hưởng lớn và vĩ đại nhất mà ông đã từng viết, chúng cũng mang tên: Những bản giao hưởng London (no.93 đến no.104) No. 94 “Ngạc nhiên”, No. 96 “Huyền diệu”, No. 100 “Nhà binh”, No. 101 “Đồng hồ”, No. 102 “Trống rung”, No. 104 “Salamon”. Ông cũng thử sức với các trio và sonata trong suốt thời gian ở London, cho ra đời Trio No.26 và 30, Sonata No 50 và 52. Khi quyết định quay về hẳn Vienna vào giữa năm 1795, Haydn bắt đầu lại công việc với vai trò chỉ đạo và điều hành âm nhạc cho gia đình Esterhazy, nhưng ông dành phần lớn thời gian tại Vienna sáng tác những tác phẩm nổi tiếng như Các Tứ tấu dây Op.76 (bản thứ ba mang tên Emperor Quartet), Ba tứ tấu dây Op.77 và Concerto cho Trumpet. Tuy nhiên nhạc tôn giáo chiếm phần lớn trong các tác phẩm cuối đời của nhạc sĩ bao gồm: 6 Masses lớn cho đơn ca, hợp xướng và dàn nhạc, 2 oratorio lớn: Đấng Sáng tạo (1798) và Các mùa (1801). Haydn bắt đầu viết một tứ tấu dây năm 1803 nhưng còn dang dở.

Ông được phong danh hiệu “công dân danh dự “ tại Vienna năm 1804 và được giới thiệu tại buổi trình diễn thanh xướng kịch Đấng Sáng tạo năm 1808 (chỉ huy: Salieri ). Haydn – cha đẻ của giao hưởng – qua đời tại Vienna vào ngày 31 tháng 5 năm 1809.

Khuôn khổ của giao hưởng Ý đã thay đổi ở Đức bởi số lượng dàn nhạc ở đây nhiều hơn và trình độ kĩ thuật cao hơn. Các nhà soạn nhạc người Đức có những quan niệm khác nhau về âm hưởng của dàn nhạc, bởi thế các tác phẩm của họ thường phức tạp hơn nhiều, các chủ đề biến tấu cũng đa dạng, phong phú hơn. Cấu trúc giao hưởng 3 chương đã được mở rộng, phát triển thành 4 chương (có thêm chương minuet hoặc scherzo). Dần dần, giao hưởng đã làm mờ đi vai trò của các tác phẩm cho đơn ca để trở thành phần trình diễn chính trong các buổi hòa nhạc, như trường hợp của các giao hưởng cuối cùng của Haydn, giao hưởng của Mozart sau năm 1786, cả 9 giao hưởng của Beethoven.

Haydn là một bậc thầy trong lĩnh vực Tứ tấu cho Đàn dây và ông đã đưa nó trở thành một trong các thể loại quan trọng bậc nhất trong toàn bộ sáng tác của mình. 82 tứ tấu của Haydn vẫn là một sự thách thức khó khăn cho tất cả các nhạc công chuyên nghiệp cũng như các nhà soạn nhạc khác về phong cách viết đối vị của ông. Sau thời của Haydn, Mozart, Beethoven các thể loại này phát triển lên một tầm cao mới.

(Nguồn: nhaccodien.info)





Sưu tầm

Các bài viết khác:
Hoàn cảnh sáng tác ca khúc “Tình Bác sáng đời ta” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
Hoàn cảnh sáng tác ca khúc “Tình Bác sáng đời ta” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
[ad_1] VỀ CA KHÚC "TÌNH BÁC SÁNG ĐỜI TA" Tên ca khúc: Tình Bác sáng đời ta Nhạc sĩ sáng tác: Lưu Hữu Phước Lời: Diệp Minh Tuyền Thể loại:...

Cô Ba Thanh Loan – nữ danh ca nức tiếng hết lòng vì nghệ thuật cải lương và cách mạng
Cô Ba Thanh Loan – nữ danh ca nức tiếng hết lòng vì nghệ thuật cải lương và cách mạng
[ad_1] HỒ SƠ - TIỂU SỬ NGHỆ SĨ THANH LOAN Tên thật: Nguyễn Thị Loan Nghệ danh: Thanh Loan, Cô Ba Thanh Loan Ngày sinh: 12/01/1917 - Ngày mất: 13/10/1982....

Nhạc sĩ Lam Phương: Ngôi sao sáng giữa bầu trời âm nhạc đại chúng trước 1975
Nhạc sĩ Lam Phương: Ngôi sao sáng giữa bầu trời âm nhạc đại chúng trước 1975
[ad_1] HỒ SƠ NHẠC SĨ LAM PHƯƠNG Tên thật: Lâm Đình Phùng Nghệ danh: Lam Phương, Thương Anh Ngày sinh:20/03/1937 – 22/12/2020 Quê quán: Làng Vĩnh Thanh Vân, quận Châu...

Top 3 bản hùng ca hay nhất của nhạc sĩ Thẩm Oánh
Top 3 bản hùng ca hay nhất của nhạc sĩ Thẩm Oánh
[ad_1] Nhạc sĩ Thẩm Oánh là một trong những “cây đại thụ” của nền âm nhạc Việt với hơn 1000 nhạc phẩm được chắp bút. Trong đó, nổi tiếng nhất...

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA GEORGE FRIDERIC HANDEL (1685-1759)
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA GEORGE FRIDERIC HANDEL (1685-1759)
[ad_1] George Frideric Händel, có lẽ là nhạc sĩ tiêu biểu nhất thời kì Baroque, sinh ra tại Halle ngày 23 tháng 2 năm 1685, cùng năm với nhạc sĩ...

Nhạc sĩ Lê Hựu Hà: Người tiên phong Việt hoá nhạc trẻ Âu – Mỹ và bi kịch cuối cùng của một con người tài hoa
Nhạc sĩ Lê Hựu Hà: Người tiên phong Việt hoá nhạc trẻ Âu – Mỹ và bi kịch cuối cùng của một con người tài hoa
[ad_1] HỒ SƠ TIỂU SỬ NHẠC SĨ LÊ HỰU HÀ Tên thật: Lê Hựu Hà Ngày sinh - ngày mất: 1946 - 2003 Quê quán: Đồng Nai Gia đình: Nhạc...

Văn Cao và Phạm Duy: Tình bạn hiếm có khó tìm qua lời kể của họa sĩ Văn Thao
Văn Cao và Phạm Duy: Tình bạn hiếm có khó tìm qua lời kể của họa sĩ Văn Thao
[ad_1] Họa sĩ Văn Thao - con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao là người nắm giữ nhiều câu chuyện, kỷ niệm về tình bạn đẹp trong cả âm...

Nhạc sĩ Ngọc Chánh – nhạc sĩ Phạm Duy: Sự kết hợp ăn ý ở mảng nhạc phim với ca khúc “Vết thù trên lưng ngựa hoang”
Nhạc sĩ Ngọc Chánh – nhạc sĩ Phạm Duy: Sự kết hợp ăn ý ở mảng nhạc phim với ca khúc “Vết thù trên lưng ngựa hoang”
[ad_1] VỀ CA KHÚC "VẾT THÙ TRÊN LƯNG NGỰA HOANG" Tên ca khúc: Vết thù trên lưng ngựa hoang Nhạc sĩ: Ngọc Chánh - Phạm Duy Thể loại: Nhạc phim...

Mối tình trong sáng nhất đời Phạm Duy: “Tôi yêu người phụ nữ ấy lắm… Tôi dành tặng bà ấy 40 bài hát”
Mối tình trong sáng nhất đời Phạm Duy: “Tôi yêu người phụ nữ ấy lắm… Tôi dành tặng bà ấy 40 bài hát”
[ad_1] Phạm Duy là 1 trong 4 cây đại thụ của nền tân nhạc Việt Nam. Ông sáng tác rất "khỏe", nhất là tình ca. Theo nhiều tư liệu, những...

Nghệ sĩ Thành Được và “sầu nữ” Bạch Lan: Cuộc “hôn thơ giá thú” đầu tiên trong giới nghệ sĩ tan vỡ vì “máu hoạn thư”?
Nghệ sĩ Thành Được và “sầu nữ” Bạch Lan: Cuộc “hôn thơ giá thú” đầu tiên trong giới nghệ sĩ tan vỡ vì “máu hoạn thư”?
[ad_1] Khi đứng chung một sân khấu, hai cái tên Thành Được - Út Bạch Lan được xem như biểu tượng khó có thể thay thế của nghệ thuật cải...

Top 5 ca khúc hay nhất của nhạc sĩ Xuân Tiên
Top 5 ca khúc hay nhất của nhạc sĩ Xuân Tiên
[ad_1] Nhạc sĩ Xuân Tiên là nhạc sĩ lão làng của nền tân nhạc Việt Nam với nhiều ca khúc bất hủ đi cùng năm tháng, được nhiều thế hệ...

Cuộc gặp xúc động giữa NS Hoàng Thi Thơ và người con trai ở bên kia chiến tuyến: “Để gặp được ba thế này đã có người phải chết thay con!”
Cuộc gặp xúc động giữa NS Hoàng Thi Thơ và người con trai ở bên kia chiến tuyến: “Để gặp được ba thế này đã có người phải chết thay con!”
[ad_1] Trước khi vào miền Nam sinh sống và nên duyên vợ chồng với ca sĩ Thúy Nga, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ từng có mối tình đậm sâu với...

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA VINCENZO BELLINI (1801 – 1835)
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA VINCENZO BELLINI (1801 – 1835)
[ad_1] Vincenzo Salvatore Carmelo Francesco Bellini sinh ngày 3/11/1801 ở Catania, Sicily, Italia, là con trai của Rosario Bellini, một nghệ sĩ organ kiêm nhà soạn nhạc sân khấu. Theo...

Hoàn cảnh ra đời ca khúc “Hoa học trò”: Mộng ước một thời tuổi trẻ
Hoàn cảnh ra đời ca khúc “Hoa học trò”: Mộng ước một thời tuổi trẻ
[ad_1] CA KHÚC “HOA HỌC TRÒ” Tên các khúc: Hoa học trò Nhạc sĩ sáng tác: Anh Bằng Phổ thơ: “Hoa học trò” của nhà thơ Nhất Tuấn Năm phát...

Hoàn cảnh ra đời ca khúc “Cô láng giềng”: Tuyệt phẩm trữ tình của nhạc sĩ tài hoa nhưng vắn số
Hoàn cảnh ra đời ca khúc “Cô láng giềng”: Tuyệt phẩm trữ tình của nhạc sĩ tài hoa nhưng vắn số
[ad_1] VỀ CA KHÚC CÔ LÁNG GIỀNG Tên ca khúc: Cô láng giềng. Nhạc sĩ sáng tác: Hoàng Quý - Tô Vũ (Hoàng Phú). Thể loại: Nhạc trữ tình. Năm...

Hợp âm xem nhiều

01. Ai sẽ đưa em qua dốc đời - Ngô Huy Khánh Trân

02. Rêu phong đời nhau - Minh Trường

03. Dành cho em - Hoàng Tôn

04. Xấu lắm nha - Trần Duy Phương

05. That’s why you go away - Michael Learns to Rock

06. Cánh đồng mây của Thượng Đế - Hứa Kim Tuyền

07. Mai anh về - Hồng Minh Lê

08. Còn đâu nữa em - Lê Hoàng Long

09. Được không - Hiim Hii

10. Biển đêm - Còng Biển

11. Chỉ mong trái tim người (Bí mật bị thời gian vùi lấp OST) - Nhạc Hoa

12. Thu về trên phím xưa - Ngô Thanh Nam

13. Đêm nhớ về Sài Gòn - Trầm Tử Thiêng

14. A Di Đà Phật - Hồ Việt Trung

15. Điệu buồn tương tư - Thanh Nguyên

16. Gửi đôi mắt nai - Trần Minh Phi

17. Vì em có anh - Hoàng Yến Chibi

18. Năm mới vạn sự phát tài - Khánh Đơn

19. Một trái tim đau - Vũ Đức Võ

20. Nói với em - Phan Bá Chức

21. Lỡ - Băng Nhi

22. Có những giấc mơ - Đào Trọng Thịnh

23. Xót xa - Nguyễn Văn Thanh Nhã

24. Bên hồ Than Thở - Lê Uyên Phương

25. Cho đời nhau tương tư - Nguyễn Tuấn

26. Kìa tết đang sang - Nam Lê

27. Tình em trao anh (Surun Pyyhit Silmistäni – Như sương như mưa lại như gió – Xiàng wù xiàng yǔ yòu xiàng fēng -像雾像雨又像风)) - Nhạc Ngoại

28. Yêu để trở thành người xấu (Em là của em OST) - Trịnh Thăng Bình

29. Thương thời mộng mơ - Hoàng Ngọc Sơn

30. Đời lạc mất nhau - Lê Thiên Nhã