Hoàn cảnh ra đời “Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi”: Nỗi niềm từ đá vọng phu và “Chinh phụ ngâm”


VỀ “HÒN VỌNG PHU 1 – ĐOÀN NGƯỜI RA ĐI”

  • Tên ca khúc: Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi
  • Nhạc sĩ sáng tác: Lê Thương
  • Thể loại: Trường ca
  • Năm ra đời: 1943

“Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi” ra đời trong hoàn cảnh nào?

“Hòn vọng phu” của nhạc sĩ Lê Thương là bản trường ca nổi danh nhất, thành công nhất và cũng là bản trường ca đầu tiên của Việt Nam. Trường ca này được sáng tác dựa trên sự kết hợp âm điệu và kỹ thuật của hai nền nhạc Đông phương và Tây phương. Trường ca này đã mang tài năng, tên tuổi của nhạc sĩ Lê Thương lên vị trí “độc nhất duy tôn” trong lĩnh vực sáng tác trường ca của Việt Nam. 

Trường ca “Hòn vọng phu” được kết cấu gồm 3 phần: “Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi”; “Hòn vọng phu 2 – Ai xuôi vạn lý”; “Hòn vọng phu 3 – Người chinh phu về”. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào ca khúc “Hòn vọng phu 1: Đoàn người ra đi”.

Ca khúc “Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi” được sáng tác năm 1943, được xuất bản lần đầu vào năm 1946. Ở giai đoạn này, tân nhạc còn khá mới mẻ nhưng nhạc sĩ Lê Thương đã kết hợp tài tình những giai điệu âm nhạc hiện đại Tây phương với những âm giai ngũ cung của nhạc cổ truyền Việt Nam để tạo nên ca khúc bất hủ, làm nên sự thành công của trường ca “Hòn vọng phu”.

“Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi” của nhạc sĩ Lê Thương được chia làm 2 phần, với một đoạn nhạc chuyển viết theo cách xướng âm cổ: “Hò xừ xang xê cống líu ú”. Trong bản in năm 1955 (nhà xuất bản (Tinh Hoa, Huế), phần đầu ghi “Nhịp đo”, phần sau ghi “ca khúc”, ở giữa lại là điệu kèn quen thuộc: “Cang xang xang hò xừ xang…”.

Ở trong bản thu âm trước năm 1975, các nhạc sĩ hòa âm thường tuân theo đúng ý của nhạc sĩ Lê Thương: Khúc đầu nhịp quân hành diễn tả hình ảnh người chồng ra đi theo tiếng gọi của núi sông, phần sau êm dịu hơn, đó là lời than của người vợ ở lại.



hoan-canh-ra-doi-ca-khuc-hon-vong-phu-1--doan-nguoi-ra-di-7
“Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi” trên tờ nhạc của Nxb An Phú

Về hoàn cảnh sáng tác “Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi”, nhạc sĩ Lê Thương có kể lại: Khoảng năm 1944 – 1945, ông đang ở Mỹ Tho với tâm hồn ưu tư về thời cuộc, sự loạn ly. Thấu cảm nỗi lòng người chinh phu trong tích xưa, ngẫm lại phận mình cũng đang là một chinh phu thời hiện đại, ông đã bắt tay vào sáng tác ca khúc này. 

Trước đó, trên đường vào Nam, ông từng đi qua Phú Yên và bị thu hút bởi tượng “vọng phu” cùng quang cảnh nước non ở vùng này. Có thể nói, hình ảnh tượng vọng phu ở vùng đất Phú Yên đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới cảm xúc của nhạc sĩ Lê Thương.

“Núi vọng phu ở Phú Yên tại một vùng địa lý hơi man rợ, thâm u là đá đẹp nhất, xem từ biển nhìn vào làm cho tôi cảm mến. Quang cảnh của thiên nhiên, trộn vào ảnh cảm địa lịch qua từng bước đường nam tiến vẫn ám ảnh tâm hồn tôi, một cậu trai giàu tưởng tượng đê rlucs sống bên bờ kinh Chẹc Xậy (Bến Tre thân mến) phải thể hiện thành bài Hòn vọng phu 1”, nhạc sĩ Lê Thương từng chia sẻ.

Đôi lời lý giải về những điển tích trong “Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi”

Theo báo Thanh Niên, ca khúc “Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi” được lấy cảm hứng từ thi phẩm “Chinh phụ ngâm” (Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm dịch) với hình ảnh đoàn quân đi trùng điệp, trống chiêng giục giã, ngựa hí vang trời, cờ bay phấp phới… cùng với những địa danh Thiên San, Man Khê, Tiêu Dương… từ trong Chinh phụ ngâm được lồng vào bài ca một cách tự nhiên mà hào hùng. Đoạn kết bài hát nói tới người vợ ở nhà ngày ngày ôm con chờ chồng, để rồi chờ mãi tới hóa đá: “Người không rời khỏi kiếp gian nan/ Người biến thành tượng đá ôm con…”.

Trong một cuộc phỏng vấn, nhạc sĩ Lê Thương cũng xác nhận, nhạc phẩm của mình được lấy cảm hứng từ “Chinh phụ ngâm”: “…Xin thú thật là tôi còn chịu ảnh hưởng sâu xa trong Chinh phụ ngâm, cụ thể là: ‘Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt’ (Chinh phụ ngâm), thì trong ‘Hòn vọng phu’ tôi biến thành: ‘Lệnh vua, hành quân, trống kêu dồn…’; ‘Tới Man Kê bàn sự Phụ Ba’ (Chinh phụ ngâm), tôi biến thành: ‘Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng..”.

Cũng theo nhạc sĩ Lê Thương, những câu thơ trong “Chinh phụ ngâm” đã in sâu vào tiềm thức những ngày ông còn ngồi trên ghế nhà trường. Và rồi với những ấn tượng thắng tích đá vọng phu qua truyền thuyết thiếu phụ ôm con mòn mỏi trông chồng đến hóa đá, đã hằn sâu trong tâm tư. Nay gặp lại cảnh núi sông hùng vĩ, đó là môi trường thuận lợi để Lê Thương viết ra những giai điệu trong “Hòn vọng phu 1 – Đoàn người ra đi”.

“Chinh phụ ngâm” có nghĩa là lời than vãn của người phụ nữ có chồng đi đánh trận, nên ngay đầu bản trường ca, chúng ta thấy một đoàn hùng binh ra trận rất kiêu hùng, giống như đoạn mở đầu của “Chinh phụ ngâm” có khung cảnh của ly loạn và nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tòng quân:

“Lệnh vua hành quân trống kêu dồn

quan với quân lên đường,

đoàn ngựa xe cuối cùng,

vừa duổi theo lối sông…”



hoan-canh-ra-doi-ca-khuc-hon-vong-phu-1--doan-nguoi-ra-di
Ca khúc “Hòn vọng phu” – Phần thứ nhất

 Ở đoạn sau, ảnh hưởng từ “Chinh phụ ngâm” đối với “Hòn vọng phu” đậm nét hơn. Nhạc sĩ Lê Thương đã nhắc đến rất nhiều điển cố như:

“Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn,

Vui ca xang rôi đi tiến binh ngoài ngàn

người đi ngoài vạn lý quan san. 

người đứng chờ trong bóng cô đơn. 

Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,  

Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng.  

người không rời khỏi kiếp gian nan,  

người biến thành tượng đá ôm con.

“Thiên San” là địa danh được Đặng Trần Côn nhắc đến trong “Chinh phụ ngâm: “Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt/ Quân tâm vạn lý Thiên San Tiễn/ Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền…”. Sau này, được Đoàn Thị Điểm diễn Nôm: “Lòng thiếp tự bóng trăng theo dõi/ Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San/ Múa gươm rượu tiễn chưa tàn…”.

Nói thêm về điển tích “Thiên San” trong câu hát, nó xuất phát từ điển cố đời Đường bên tàu. Thiên San, còn là Tuyết San, là dãy núi lớn ở miền Tân Cương (Trung Quốc), xưa thuộc đất Hung Nô, là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á. Ở vùng này, Tiết Nhân Quí – danh tướng đời Đường từng bắt 3 phát tên mà bình được 10 vạn quân Thiết lạc (Hung Nô). Trong quân nhân có câu hát: “Tướng quân tam tiễn định Thiên San, tráng sĩ trường ca nhập Hán quan”, nghĩa là tướng quân bắn 3 phát lên định được cõi Thiên San, kẻ tráng sĩ hát dài kéo về ải Hán. 

Như vậy, “qua Thiên San” và “tiễn rượu” trong “Hòn vọng phu” được trích nguyên bản từ “Chinh phụ ngâm”. Đoạn này mang ý nghĩa nói về cuộc rượu tiễn đưa trong niềm hân hoan: “Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn”.

Đáng chú ý ở đâu có cụm từ “vui xa xang” mà nhiều ca sĩ hát thành “vui ca xong” hoặc “vui ca vang” vì không hiểu ý nghĩa cốt lõi bên trong. Vậy “xang” ở đây có nghĩa là gì?

“Xang” ở đây là niềm hân hoan ra trận. Từng có ý kiến cho rằng, “xang” ở đây được bắt nguồn từ “hồ, xự, xang, xê, cống” của âm giai ngũ cung. Trong đó, xang là cung thứ 3, là thanh âm cao, thể hiện sự hân hoan, vui sướng và phấn khởi (xang còn có nghĩa là thượng, cao).

Còn theo giáo sư Phạm Xuân Đài, chữ “xang” có trong tiếng Việt từ rất lâu, và được ghi trong tất cả những từ điển tiếng vIệt có danh tiếng từ thế kỷ 17 đến nay. Tuy có một số tiểu tiết khác biệt qua các thời, từ “xang” cho ta một ý niệm động: nâng tay lên cao. Nếu gắn vào trong hoàn cảnh bài hát, thì “vui ca xang” thể hiện sự hăng hái của người ra trận. 

Ngoài các điển tích trên thì có có thêm 2 điển tích khác được Lê Thương sử dụng: 

“Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,

Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng”.

Hai điển tích này cũng được nhắc tới trong “Chinh phụ ngâm:

“Tiểu hướng Man Khê đàm Mã Viện”

dịch Nôm:

“Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba”

“Man Khê” trong điển tích Trung Quốc được chép lại như sau: Vào đời Hán, cùng Vũ Lăng có 5 dòng khe, đều là nơi ở của dân tộc Bàn Hồ (khác Hán tộc), gọi là vùng Ngũ khê man (là vùng tiếp giáp hai tỉnh Hồ Nam và quý Châu ngày nay). Đời Hán Vũ đế, dân tộc man ở Vũ Lăng nổi dậy cướp phá nhà Hán, Vũ đế sai Phục ba tướng quân – Mã Viện đi đánh dẹp (Mã Viện này cũng là người dẫn quân Hán vào xâm lược người Việt ở xứ Giao Chỉ, ép Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở dòng Hát giang). 

Cũng vì nhắc đến địa danh Man Khê tròng câu hát “Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng” mà nhạc sĩ Lê Thương từng bị “chiến khu” phê bình vì đã vô tình ca ngợi giặc là Mã Viện. 

Địa danh “Tiêu Tương” được nhắc đến trong “Chinh phụ ngâm”:

“Lang cố thiếp hề Hàm Dương

Thiếp cố lang hề Tiêu Dương

Tiêu Dương yên trở Hàm Dương thụ

Hàm Dương thụ cách Tiêu Dương giang”.

dịch Nôm:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,

Cây Hàm Dương cách Tiêu Dương mấy trùng”.

“Tiêu Dương” xuất hiện trong điển tích: Đó là vùng sông do hai sông Tiêu và Tương hợp với nhau ở tỉnh Hồ Nam, gọi chung là Tiêu Tương. Dòng này chảy vào hồ Động Đình. Vùng Tiêu Tương có nhiều cảnh sơn thủy xinh đẹp, gọi là “Tiêu Tương bát cảnh” (tám cảnh đẹp nhất vùng Tiêu Tương).

Nhạc sĩ Lê Thương đã sử dụng điển tích này như là khúc tráng ca để nhắc nhớ các chinh nhân thời xưa. 

Nhạc sĩ Lê Thương đã nhắc đến quang cảnh xuất binh đầy thanh thế với cờ hoa phấp phới, chiêng trống dồn vang:

“Ngựa phi ngoài xa hí vang trời

Chiêng trống khua trăm hồi

Ngần ngại trên núi đồi

Rồi vọng ra khắp nơi…”

Trong không khí hùng tráng đó, lẩn khuất sự chia ly không hẹn ngày trở lại:

“Vui ra đi rồi không hẹn ngày về

Ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề.

Nhìn chân trời xanh biếc bao la,

Người mong chờ vẫn nhớ nơi xa”.

Ở đoạn cuối là hình ảnh bi thương, ta tác. Nó đại diện cho số phận không may mắn của người Việt với ngàn năm chinh chiến, loạn ly:

“Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về,

bao nhiêu phen thời gian xóa phai lời thề,

người mong chồng còn đứng muôn năm”…



Theo Amnhac.net

Các bài viết khác:
Ly rượu mừng” của Phạm Đình Chương: “Xuân khúc kinh điển của nền tân nhạc Việt Nam
Ly rượu mừng” của Phạm Đình Chương: “Xuân khúc kinh điển của nền tân nhạc Việt Nam
[ad_1] CA KHÚC "LY RƯỢU MỪNG" Sáng tác: Phạm Đình Chương Thể loại: Nhạc tiền chiến Năm ra đời: 1952 Thu âm: Ban hợp ca Thăng Long Ca khúc "Ly...

Nhạc sĩ Văn Cao – Bậc tài danh sống mãi trong hồn dân tộc
Nhạc sĩ Văn Cao – Bậc tài danh sống mãi trong hồn dân tộc
[ad_1] Chuyện xảy ra đã lâu, song tôi vẫn còn nhớ như một kỷ niệm khó quên trong đời. Tôi bị áp xe, cánh tay sưng, người sốt cao, phải...

“Tà áo xanh” khiến Đoàn Chuẩn vương vấn tương tư suốt một đời
“Tà áo xanh” khiến Đoàn Chuẩn vương vấn tương tư suốt một đời
[ad_1] CA KHÚC “TÀ ÁO XANH” Tên các khúc: Tà áo xanh Nhạc sĩ sáng tác: Đoàn Chuẩn Năm phát thành: 1959 Ca sĩ trình bày tiêu biểu: Lệ Thu...

Giai thoại cuộc tình Châu Kỳ – Mộc Lan [P1]: Dìu nhau vào mộng đẹp nơi xứ Huế
Giai thoại cuộc tình Châu Kỳ – Mộc Lan [P1]: Dìu nhau vào mộng đẹp nơi xứ Huế
[ad_1] Trong cuốn sách “Chuyện tình các nhạc sĩ tiền chiến” do nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội phát hành năm 1996, nhạc sĩ Lê Hoàng Long...

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
[ad_1] Tiểu sử: Trịnh Công Sơn (28 tháng 2 năm 1939 – 1 tháng 4 năm 2001) Nguyên quán: Hương Trà- Thừa Thiên Huế. Là một nam nhạc sĩ người Việt Nam. Ông...

Hoàn cảnh sáng tác ca khúc “Tình Bác sáng đời ta” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
Hoàn cảnh sáng tác ca khúc “Tình Bác sáng đời ta” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
[ad_1] VỀ CA KHÚC "TÌNH BÁC SÁNG ĐỜI TA" Tên ca khúc: Tình Bác sáng đời ta Nhạc sĩ sáng tác: Lưu Hữu Phước Lời: Diệp Minh Tuyền Thể loại:...

Cô Ba Thanh Loan – nữ danh ca nức tiếng hết lòng vì nghệ thuật cải lương và cách mạng
Cô Ba Thanh Loan – nữ danh ca nức tiếng hết lòng vì nghệ thuật cải lương và cách mạng
[ad_1] HỒ SƠ - TIỂU SỬ NGHỆ SĨ THANH LOAN Tên thật: Nguyễn Thị Loan Nghệ danh: Thanh Loan, Cô Ba Thanh Loan Ngày sinh: 12/01/1917 - Ngày mất: 13/10/1982....

Nhạc sĩ Lam Phương: Ngôi sao sáng giữa bầu trời âm nhạc đại chúng trước 1975
Nhạc sĩ Lam Phương: Ngôi sao sáng giữa bầu trời âm nhạc đại chúng trước 1975
[ad_1] HỒ SƠ NHẠC SĨ LAM PHƯƠNG Tên thật: Lâm Đình Phùng Nghệ danh: Lam Phương, Thương Anh Ngày sinh:20/03/1937 – 22/12/2020 Quê quán: Làng Vĩnh Thanh Vân, quận Châu...

Top 3 bản hùng ca hay nhất của nhạc sĩ Thẩm Oánh
Top 3 bản hùng ca hay nhất của nhạc sĩ Thẩm Oánh
[ad_1] Nhạc sĩ Thẩm Oánh là một trong những “cây đại thụ” của nền âm nhạc Việt với hơn 1000 nhạc phẩm được chắp bút. Trong đó, nổi tiếng nhất...

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA GEORGE FRIDERIC HANDEL (1685-1759)
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA GEORGE FRIDERIC HANDEL (1685-1759)
[ad_1] George Frideric Händel, có lẽ là nhạc sĩ tiêu biểu nhất thời kì Baroque, sinh ra tại Halle ngày 23 tháng 2 năm 1685, cùng năm với nhạc sĩ...

Nhạc sĩ Lê Hựu Hà: Người tiên phong Việt hoá nhạc trẻ Âu – Mỹ và bi kịch cuối cùng của một con người tài hoa
Nhạc sĩ Lê Hựu Hà: Người tiên phong Việt hoá nhạc trẻ Âu – Mỹ và bi kịch cuối cùng của một con người tài hoa
[ad_1] HỒ SƠ TIỂU SỬ NHẠC SĨ LÊ HỰU HÀ Tên thật: Lê Hựu Hà Ngày sinh - ngày mất: 1946 - 2003 Quê quán: Đồng Nai Gia đình: Nhạc...

Văn Cao và Phạm Duy: Tình bạn hiếm có khó tìm qua lời kể của họa sĩ Văn Thao
Văn Cao và Phạm Duy: Tình bạn hiếm có khó tìm qua lời kể của họa sĩ Văn Thao
[ad_1] Họa sĩ Văn Thao - con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao là người nắm giữ nhiều câu chuyện, kỷ niệm về tình bạn đẹp trong cả âm...

Nhạc sĩ Ngọc Chánh – nhạc sĩ Phạm Duy: Sự kết hợp ăn ý ở mảng nhạc phim với ca khúc “Vết thù trên lưng ngựa hoang”
Nhạc sĩ Ngọc Chánh – nhạc sĩ Phạm Duy: Sự kết hợp ăn ý ở mảng nhạc phim với ca khúc “Vết thù trên lưng ngựa hoang”
[ad_1] VỀ CA KHÚC "VẾT THÙ TRÊN LƯNG NGỰA HOANG" Tên ca khúc: Vết thù trên lưng ngựa hoang Nhạc sĩ: Ngọc Chánh - Phạm Duy Thể loại: Nhạc phim...

Mối tình trong sáng nhất đời Phạm Duy: “Tôi yêu người phụ nữ ấy lắm… Tôi dành tặng bà ấy 40 bài hát”
Mối tình trong sáng nhất đời Phạm Duy: “Tôi yêu người phụ nữ ấy lắm… Tôi dành tặng bà ấy 40 bài hát”
[ad_1] Phạm Duy là 1 trong 4 cây đại thụ của nền tân nhạc Việt Nam. Ông sáng tác rất "khỏe", nhất là tình ca. Theo nhiều tư liệu, những...

Nghệ sĩ Thành Được và “sầu nữ” Bạch Lan: Cuộc “hôn thơ giá thú” đầu tiên trong giới nghệ sĩ tan vỡ vì “máu hoạn thư”?
Nghệ sĩ Thành Được và “sầu nữ” Bạch Lan: Cuộc “hôn thơ giá thú” đầu tiên trong giới nghệ sĩ tan vỡ vì “máu hoạn thư”?
[ad_1] Khi đứng chung một sân khấu, hai cái tên Thành Được - Út Bạch Lan được xem như biểu tượng khó có thể thay thế của nghệ thuật cải...